U mô mỡ (lành tính) ở mèo

8226
Khuyến mãi thức ăn, phụ kiện và đồ chơi thú cưng

U mỡ thâm nhiễm là một khối u lành tính, xâm lấn, hình thành từ mô mỡ, một biến thể không di căn (lan rộng), nhưng xâm nhập vào mô mềm, đặc biệt là mô cơ, nhưng cũng thường được thấy trong các mạc (thành phần mô mềm của hệ thống mô liên kết), gân, dây thần kinh, mạch máu, tuyến nước bọt, hạch bạch huyết, bao khớp và đôi khi là xương. Sự thâm nhiễm cơ thường rộng đến nỗi không thể thực hiện phẫu thuật mà không có hậu quả nghiêm trọng.

U mỡ thâm nhiễm xảy ra ít hơn so với u mỡ, và hiếm gặp ở mèo. Khi bệnh xảy ra, nó thường ở mèo trưởng thành, và thường ảnh hưởng đến con cái nhiều hơn con đực. Mặt khác, chưa có bằng chứng rõ ràng nào về việc giống có ảnh hưởng đến khả năng mắc bệnh.

Triệu chứng và phân loại

  • Khối mô lớn, mềm
  • Sưng cơ
  • Sự thâm nhiễm vào vùng xương chậu, đùi, vai, ngực và hệ thống cơ cổ ở bên (ở bên cổ)

Nguyên nhân

Chưa rõ

Chẩn đoán

Bạn sẽ cần phải cung cấp bệnh sử toàn diện của mèo và sự khởi phát các triệu chứng. Bác sĩ thú y sẽ sử dụng hình ảnh X quang để thấy được mô mỡ dày đặc giữa các cấu trúc dày đặc mô mềm, và chụp cắt lớp vi tính (CT) sẽ giúp phân biệt đặc điểm của khối u để bác sĩ có thể lên kế hoạch xem loại xạ trị nào là tốt nhất. Tuy nhiên, việc phân biệt chất béo bình thường với u mỡ thâm nhiễm có thể rất phức tạp và có nhiều vấn đề.

Một mẫu tế bào khối u có thể được lấy qua chọc hút bằng kim để phân tích trong phòng thí nghiệm, và điều này có thể giúp bác sĩ phân biệt giữa mô mỡ bình thường và u mỡ. Khối u mỡ có một đặc điểm đặc biệt là chúng thâm nhiễm vào cơ bắp, do đó bác sĩ có thể chẩn đoán dạng dựa trên hành vi của chúng trong cấu trúc cơ bắp.

Điều trị

Đặc tính xâm lấn sâu đặc trưng của khối u này, cùng với sự khó khăn trong việc phân biệt giữa khối u và mô mỡ bình thường, làm cho việc loại bỏ vô cùng khó khăn. Bờ, rìa khối u được xác định kém, cũng có thể đóng góp vào tỷ lệ tái phát cao sau khi phẫu thuật cắt bỏ đã được thực hiện. Phần lớn mèo bệnh sau phẫu thuật bị tái phát trong vòng 3–16 tháng, với tỷ lệ ước tính khoảng 36-50%. Có một ngoại lệ, đó là khi một khối u đã nằm ở một trong các chi và toàn bộ chi đó bị cắt bỏ. Tuy nhiên, chỉ nên cắt cụt chi bị ảnh hưởng khi chất lượng cuộc sống bị ảnh hưởng, vì những khối u này sẽ gây ra một chút khó chịu, trừ khi chúng ảnh hưởng đến chuyển động, gây đau do áp lực, hoặc phát triển ở một vị trí cực kỳ quan trọng, chẳng hạn như mạch máu lớn.

Việc cắt cụt cũng được khuyến cáo trước khi sự phát triển của khối u vượt qua biên phẫu thuật có thể đạt được.

Chăm sóc

Bác sĩ thú y sẽ xếp lịch khám lại theo dựa trên sự phát triển của khối u và việc lựa chọn liệu pháp kiểm soát sự tăng trưởng